Năm 1986 - cái năm sắp là cuối cùng thời bao cấp duy trì đã lâu thống
trị toàn bộ nền kinh tế nước nhà, nền kinh tế đi xuống dốc không phanh,
đời sống người dân thật là cùng cực (cái năm 2013 này mình có cảm giác
cũng đang sắp như vậy). Tất cả các chính sách, nghị quyết thay đổi kinh
tế của chính phủ về GIÁ - LƯƠNG - TIỀN vừa ra (Do cụ nhà thơ TỐ HỮU và
giáo sư TRẦN PHƯƠNG chủ trì) đã hoàn toàn phá sản....Người dân ta thời
ấy rất giống dân tộc Bắc Triều tiên bây giờ: không được làm cái gì cả,
đều do kinh tế nhà nước làm hết, kể cả tư duy của mọi người....Trước đó
tất cả các nhà nào ở Hà Nội cao từ 3 tầng trở lên (mà ngày ấy các nhà 3
tầng gọi là vậy có cái quái gì đâu) đều bị công an khám xét, tịch thu
của cải mà không có bất kỳ một văn bản, nghị quyết hay quyết định nào
của cấp cao ban ra cả (lạ thật các bác nhỉ...)...Nói lan man lại thì là
KINH TẾ NGÀY ĐÓ CỰC KỲ KHỦNG HOẢNG, RẤT DỄ XẢY RA BẠO ĐỘNG HOẶC BIẾN ĐỘNG
XÃ HỘI do người dân đã bị bịt hết đường làm ăn như người BỊ TRÓI ( sau
này Ngài TBT NGUYỄN VĂN LINH lên mới cởi trói phần nào cho nhân dân...).
Cũng
cái ngày đó mình đang học năm thứ 2 Đại Học ở Hà Nội, đói khổ, ăn cơm nhà
bếp thì toàn cơm đen, cơm sạn, đói khát triền miên, bố ở nhà bị cơ quan
bức bách, chán quá đành bỏ về hưu thì đúng lúc mình vào Đại Học (năm
1984). Mẹ làm công nhân quần quật không đủ nuôi 4 anh em, sau này lần
lượt cũng vào đại học,...Nhớ lại hồi đó mình mê cái đài Cassette lắm, toàn
phải sang hàng xóm nghe nhờ thôi. Mình có 2 kỷ niệm thật khó phai với đài và âm thanh của Cassette
đó là: 1- Ở cùng phòng ký túc xá có ông bạn, ông này có ông chú ở
khu tập thể Thanh Xuân tận tầng 3 có cái đài em còn nhớ như in đó là
RADIO CASSETTE JVC PC-W47 màu đỏ. Cứ chủ nhật mình lại lấy xe đèo cái thằng bạn
béo ị nặng gần gấp đôi mình, nịnh lọt nó để nó đưa qua nhà ông chú để
nghe nhạc vàng. Quãng đường đèo thằng bạn từ Ký túc xá Đại Học giao
thông đến Tập thể Thanh Xuân sao hồi đó nó xa thế, bụng thì đói (có được
ăn sáng bao giờ đâu), đạp xe vã mồ hôi chỉ để được ngắm cái đài
Cassette 2 cửa băng và nghe nó hát. Cái đài được phủ một tấm khăn voan
màu trắng, khi nghe thì người nhà mới được vận hành, lật tấm khăn voan
lên như lật khăn cô dâu vậy. Nghe băng nào thì người nhà bỏ vào, bọn mình
không được sờ, chỉ ngồi nghe thôi. Bụng đói nhưng sao âm nhạc ngày đó nó
phát ra từ cái Cassette nó hay vậy các Bác ạ. Có hôm nghe luôn vài cuốn
băng, đến lúc đã muộn, trưa chặt mới về nhà bếp thì ôi thôi, bọn cùng phòng
nó chén hết xuất cơm của mình rồi, thế là đành chấp nhận nhịn đói bữa
trưa vì mải nghe nhạc vàng (ngày đó bố mẹ cho ít tiền lắm, không đủ tiền
ăn cơm quán như bây giờ, thương bố, mẹ nên đành nhịn đói vậy...). 2-
Vào kỳ nghỉ hè năm 1985 mình từ trên trường về nhà, buổi tối sau khi đạp
xe đi chơi với lũ bạn đã muộn mình đi qua cái phố Xuân Đài ở Hải Dương thì
thấy một nhà mở đài to, hát nhạc vàng phát ra giọng hát Tuấn Vũ nghe
phê quá, thế là mình dừng xe ngồi chồm hỗm ở vỉa hè đối diện, lót dép ngồi
nghe trộm cho đỡ thèm. Trong nhà bật đèn sáng em nhìn rõ đôi loa LIÊN
XÔ S90D, một bộ amply Nga có 5 cần gạt equalizer mỏng mỏng và một cái
đầu cassette cũng mỏng của Nga. Vừa nghe vừa nghĩ đến bao giờ mình đi
làm đủ tiền mình cũng sẽ sắm một bộ nghe như vậy. Em ngồi nghe đến lúc
nhà người ta đóng cửa đi ngủ mình mới lủi thủi ra về. Sau một loạt các sự
kiện xảy ra như đã kể ở trên mình về nhà nỉ nôi, lấy lòng bố mẹ và thỏ thẻ
xin gia đình bán bớt đồ đi để sắm 01 cái Radio Cassette cho gia đình để
nghe, ngày đó bố mẹ mở thêm nghề làm đậu phụ nên cũng muốn có cái đài
nó hát để nghe. Bố đồng ý thế là mấy đêm bồn chồn mất ngủ, mình lên kế
hoạch phải đi Hà Nội mua cho nó oách....Với cái nền kinh tế chung khó
khăn là vậy, với khó khăn của chính gia đình mình là vậy, dưới em là 3
đưa em cũng đang tầm ăn, tầm học,...bố về hưu sớm, mẹ làm công nhân kèm thêm nghề làm đậu phụ, thế mà dám TẤT CẢ VÌ CÁI ĐÀI
CASSETTE, mà các đài cassette ngày đó chỉ có nhà giàu hoặc trung lưu mới
dám sắm, như nhà mình như vậy là đua đòi rồi,...Nói vậy để các Bác thấy
trong tận cùng đói khổ, thì tinh thân âm nhạc vẫn giữ vững khí phách,
đúng không các bác, ít ra với mình nó đúng là như vậy. Trên tình thần nhất trí, bàn bạc đã được đại
gia đình thông qua gồm 6 người: Bố, mẹ và 4 anh em (ba trai một gái út) đồng ý kham khổ, chắt
bóp dành ra một ngân sách khoảng 400 ngàn đồng năm 1986 để đi mua 01
con đài Cassette mặc cho cái đói, cái rét, cái kham khổ vẫn đang hoàng
hành. Thủ lĩnh của dự án lớn lao này chính là mình, do vậy mình đã lên
kế hoạch ngay cho ngày đi mua sắm kẻo nó mà nguội mất thì ông chủ tài
khoản là Bố mình dễ bị thay đổi ý kiến lắm. Theo kế hoạch đã bàn, mình
sẽ lên trường ĐH trước, vào một ngày hè nóng nực hôm chủ nhật bố và cậu
em trai mình đã cùng đi và mang xe đạp lên, bố và em sẽ đi chuyến tàu HẢI DƯƠNG - HÀ
NỘI. Đến Hà Nội bố và em mình đạp xe về ký túc xá ĐH chỗ mình ở rồi
mình lấy xe đạp đi cùng ra chợ ngã tư sở Hà Nội. Ở chợ này có ông anh
ruột thằng bạn cùng phòng ký túc xá chuyên buôn bán đài Cassette Nhật,
Thái, Tàu. Với khoản chi phí có 400 ngàn, được tư vấn lấy con đài
Cassette TOSHIBA RT-SX26 như dưới đây:
Giá cả thỏa thuận ngày đó là 375 ngàn đồng - bớt
được 5 ngàn đồng do là người quen. Lấy xong đài chả kịp ăn cơm, bố và
em trai lại đèo nhau xe đạp ra ga HÀNG CỎ để kịp chuyến tàu về Hải Dương
ngay, mình ở lại mà lòng cứ nao nao,...thế là nhà mình tuy nghèo đói
nhưng đã có đài Cassette nghe rồi, nghĩ đến đó thôi lòng thấy rạo rực
chỉ muốn theo bố về ngay thôi, nhưng phải ở lại vì còn vài môn thi nữa. Sau
đó cứ ngày nghỉ cuối tháng là mình lại về nhà, buổi tối vác cái đài ra
hè, trải chiếu, kéo dây điện ra bật nghe băng Tuấn Vũ, Hương Lan, Giao Linh. Ngày đó
nghe cái âm thanh từ băng Cassette sao hay thế, anh em hàng xóm sang chơi chỉ uống nước chè vã và
nghe nhạc vàng thôi mà thấy ngây ngất hãnh diện lắm rồi.... Giờ đây khi quá khứ đã đi vào dĩ vãng mình vẫn giũ lại kỷ niệm êm đẹp xa xưa và còn sắm thêm 01 con đài Cassette TOSHIBA RT-SX26 nữa.
Cũng chính vì những quá khứ, dĩ vãng êm đẹp của tuổi trẻ như trên mà mình đã nuôi một mong ước từ đó: Nếu có tiền, có điều kiện sẽ cố gắng sưu tập nhiều Radio Cassette mà trước kia mình thích.
Đến nay theo thời gian bộ sưu tập Radio Cassette nhà mình cũng khá đủ chủng loại mà ngày xưa chỉ dám nằm mơ thôi:
Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng thời đại của băng từ đã
hết, và không còn mấy ai sử dụng chúng ngày nay khi công nghệ kỹ thuật
số đang ở đỉnh cao của nó.
Băng cassette Sony HF Series với chữ lớn rất dễ nhìn.
Việc sao chép, lưu trữ hay bảo quản những file nhạc đã dễ dàng hơn rất
nhiều so với băng từ. Và đương nhiên chúng ta đúng. Tuy nhiên, Sony nghĩ
đến những khía cạnh khác, và chính vì thế họ đã giới thiệu dòng băng
cassette mới với tên gọi HF Series.
Nhiều người vẫn giữ gìn, nâng
niu những chiếc máy cassette đã cũ nhưng mang nhiều giá trị kỷ niệm,
hoặc bản thân nó lại chính là một vật báu cho những người thích sưu tầm
máy móc cổ, và những người già, không thể làm quen được công nghệ mới,
vẫn yêu thích những bài nhạc xưa từ chiếc máy băng từ đã gắn bó với họ
từ lâu, đó chính là những khách hàng thân thiết mà Sony muốn hướng đến
khi ra mắt dòng sản phẩm này.
Dòng băng mới HF được thiết kế với
kiểu chữ lớn (dành cho những ai có khó khăn về thị giác) ra mắt thị
trường với 3 phiên bản – 10 phút, 60 phút và 90 phút. Một ưu đãi đặc
biệt khác của Sony dành cho các khách hàng đặc biệt này là giá sản phẩm
khá rẻ (từ 1 đến 2.3 euro) và còn rẻ hơn nếu mua số lượng lớn.
Băng cassette Sony HF Series 30, mua nguyên bộ sẽ có giá rẻ.
Nếu yêu thích người dùng có thể mua tại bất kỳ trang bán hàng trực tuyến nào, chẳng hạn Amazon, Ebay...
Chiếc băng cassette, một vật phẩm tưởng như đã lỗi thời
và là ký ức đẹp của nhiều người yêu nhạc, đang ngầm quay trở
lại thị trường nhờ sự giúp đỡ của một công ty Canada. Xu hướng
kỳ lạ này đã khiến người ta ngạc nhiên, bởi tưởng như băng
cassette đã không còn chỗ đứng trong thời đại nhạc số tràn
ngập như hiện nay.
Đơn đặt hàng đầu tiên được
thực hiện vào năm 1989, chỉ có vẻn vẹn 10 băng cassette. Nhưng
chừng đó đã đủ để thành lập Analogue Media Technologies, một
công ty Canada đã giúp nhiều ban nhạc tung sản phẩm của họ ra
thị trường.
Các băng cassette, tưởng như đã trở thành đồ cổ, nay đang âm thầm trở lại cuộc chơi
Âm thanh hay nhất
Thời hoàng kim, các nhạc
sĩ thường mang các bản thu âm gốc và thiết kế album của họ
tới cho Analogue và công ty, hiện còn có tên khác là
Duplication.ca, sẽ biến các nhạc phẩm đó thành những album hoàn
chỉnh, đẹp mắt, sẵn sàng để phân phối. Công ty bắt đầu
với các băng cassette, đĩa vinyl, trước khi xu thế thị trường
dần chuyển qua đĩa CD, DVD và Blu-ray. Giờ đây công ty lại trở
về loại hình thu âm đã khởi đầu tất cả: băng cassette. "Chúng
tôi trở lại với băng cassette và xem đây như điểm tạo hấp lực
chính" - Denise Gorman, đồng sở hữu công ty có trụ sở ở Montreal
nói. Analogue cho biết thu âm vào băng cassette hiện chiếm
25% hoạt động kinh doanh của công ty. Đây là một sự thay đổi
đáng ngạc nhiên so với cách đây 5 năm, khi băng cassette dường như
đã đi theo con đường diệt vong của các băng từ 8-track cartridge
từng rất thịnh hành trong những năm 60 và 70. Nguyên nhân
do những người đam mê âm thanh thuần khiết vẫn yêu thích âm thanh
phát ra từ các băng cassette cổ điển hay đĩa nhựa vinyl. "Âm
thanh số luôn chỉ là các con số 0 và 1" - Fernando Baldeon, một
nhà tư vấn kinh doanh từ Analogue nói - "Âm thanh thu bằng kỹ
thuật thu âm tương tự (analog) hiện vẫn cho ra thứ tiếng nghe hay
nhất". Được biết đĩa nhựa vinyl, tình nhân của những
người mê âm nhạc thuần khiết, có thứ âm thanh rất hay. Nhưng mức
giá của chúng lại rất đắt, thường lên tới 13,8 USD cho mỗi
đĩa hát hoặc hơn. Trong khi đó băng cassette có giá chỉ chừng 1
USD mỗi chiếc, với chất lượng âm thanh có thể so sánh được. Nhiều ban nhạc, hãng đĩa ra băng cassette
Sự
trỗi dậy bất ngờ của băng cassette đã khiến không ít ban nhạc,
đi đầu là các nhóm nhạc Anh như MGMT, British Sea Power và She
& Him đã cho ra các album/nhạc phẩm sử dụng băng cassette.
Cụ
thể, trong tháng 4 vừa rồi, MGMT đã chọn việc sử dụng băng
cassette khi tung ra ca khúc mới Alien Days. Tuy nhiên, ban nhạc vẫn
bán kèm với băng cassette các mã tải nhạc để người mua có
thể tải nhạc số về máy nghe của họ.
Trong khi đó She
& Him cũng đã có kế hoạch tung album Volume 3 của họ trên
băng cassette và đĩa vinyl thông qua hãng thu âm Merge của Mỹ. Năm
ngoái, ban nhạc Dinosaur Jr đã bán bộ 3 băng cassette có chứa 3
album đầu tay của họ là Dinosaur, You're Living All Over Me và Bug
với số lượng hạn chế cho người hâm mộ sưu tập.
Denise
Gorman cho biết công ty của anh đã nắm bắt một cách nhạy bén
xu hướng này và đã chuẩn bị tốt để phục vụ khách hàng. Thực
tế, Analogue đã nhận đơn đặt hàng từ khắp nơi trên thế giới.
Công
ty đã có chỗ đứng ở Canada và thu hút nhiều khách hàng quốc
tế, từ những nơi như Mỹ, nơi có không ít công ty cung cấp dịch
vụ sao chép băng cassette. Nhưng điểm mạnh của Analogue là do quy
mô nhỏ nên công ty có độ linh hoạt lớn hơn và cho ra sản phẩm
nhanh hơn các đối thủ nên thu lợi cũng lớn hơn.
Nhưng trong
khi thu lợi từ sự trỗi dậy mới của băng cassette, Analogue thừa
hiểu rằng công ty hoàn toàn không thể đảo ngược sự tiến lên
của thời đại và rất có thể những băng cassette đang được ưa
chuộng hôm nay sẽ lại bị các khách hàng trẻ tuổi ném vào
thùng rác ngay trong tuần sau.
"Anh không nên tiến vào hoạt
động làm ăn kiểu này với tư tưởng trong đầu cho rằng đồng hồ
đã quay ngược thời gian và xu hướng đi ngược thời đại sẽ tồn
tại vĩnh viễn" - Paul Kedrosky, một nhà nghiên cứu ở Quỹ
Kauffman nhận xét. Ông cho rằng các công ty đang thu lợi từ sự
trở lại của băng cassette cần tự hỏi rằng liệu đây có phải là
một xu hướng mang tính nền tảng vững chắc, hay chỉ là sự
kiện nhất thời và qua đó có hướng ứng xử phù hợp.
Tường Linh (Tổng hợp) Theo báo thể thao & Văn hóa trên trang citinews.net
Bạn có nhớ lần cuối mình nghe một bài nhạc được phát từ băng Cassette là
khi nào không? Mình dám cá là những đứa trẻ chừng 10 tuổi chắc là chẳng
có ấn tượng gì về nó nữa cả. Mà thậm chí nếu không nhắc lại thì chắc
hẳn nhiều bạn cũng đã không còn nhớ đến sự tồn tại của những chiếc băng
Cassette, khởi đầu cho những tâm hồn yêu thích âm nhạc từ 20-30 năm về
trước. Còn một điều khác nữa là chắc không nhiều người biết rằng, băng
Cassette đã 50 năm tuổi.
Băng cassette được phát minh bởi
Dale Wiggins, trưởng nhóm nghiên cứu của công ty điện tử Philips. Tháng 8
năm 1963, hãng Philips ở Hà Lan đã cho ra mắt băng Compact Cassette và
máy nghe Cassette (được giới thiệu lần đầu tại Hội chợ Triển lãm Phát
sóng Funkausstellung tại Berlin). Từ năm 1965, những băng nhạc Cassette
thông dụng bắt đầu được bán ra thị trường, lúc đầu chỉ có thể phát bằng
chất lượng âm thanh mono (âm thanh đơn kênh, đơn loa), nhưng từ năm 1966
đã có băng Cassette stereo (đa kênh).
Băng Cassette Còn được
gọi đơn giản là băng nhạc. Một băng Cassette được cấu tạo từ một cuộn
băng có mang từ trường trong một vỏ băng bằng nhựa, trong đó thường được
ghi bằng 4 rãnh âm thanh cho 2 mặt. Cuộn băng từ trường này rộng 3,81
mm, còn độ dài của cuộn băng và độ dày của băng tùy thuộc vào thời gian
có thể chạy của cả băng, như có nhiều chuẩn thông dụng C60 (30 phút âm
thanh mỗi mặt, băng dài 90 m), C90 (45 phút mỗi mặt, băng dài khoảng 130
m)... Cuộn băng từ trường này lúc đầu được làm từ một hỗn hợp ferric
oxide (Fe2O3), nhưng sau có loại tráng thêm chromium dioxide (CrO2),
hoặc vài hỗn hợp khác để tăng cường chất lượng âm thanh.
Cho
đến năm 1988, riêng hãng Philips, nhà sản xuất thiết bị điện tử khổng lồ
của Hà Lan, bán được khoảng 3 tỷ băng Cassette. Những hãng sản xuất
băng Cassette nổi tiếng khác có thể kể ra như TDK, Maxell, BASF, Sony,
JVC, Nakamichi,… Những biến thể phát triển của băng Cassette sau này như
Digital Audio Tape (DAT), Digital Compact Cassette (DCC) (phát triển
trong những năm 1992-1996) ... tuy nhiên với sự biến chuyển nhanh chóng
của thị trường kỹ thuật số, những sản phẩm này không đủ sức cạnh tranh
lâu dài với những sản phẩm khác và dần dần bị quên lãng.
Ngày
nay, ở các thành phố lớn, băng Cassette gần như đã bị lãng quên khi các
thiết bị kỹ thuật số khác đang phát triển quá nhanh. Tuy nhiên, sự thật
là nó vẫn còn được dùng để ghi các thể loại nhạc đường phố hay dân gian
của người dân ở những khu vực như Trung Đông, Ấn Độ, và châu Á, một chủ
cửa hàng bán băng đĩa nói với CNN.
Ngoài ra thì vẫn còn
những người lưu luyến với những ký ức đẹp về băng Cassette. Bằng chứng
là có nhiều món phụ kiện được lấy cảm hứng từ hình ảnh chiếc băng từ
này. Đơn cử như là những vỏ bảo vệ dành cho điện thoại di động có hình
băng Cassette hay những món đồ tự chế được làm từ băng Cassette.
Kỳ thực mình vẫn còn nhớ như in cái cảm giác thích thú khi mà Ba
mình tặng cho mình chiếc máy Cassette đầu tiên vào năm 1995, lúc đó mình
mới 11 tuổi. Nó thực sự là một món quà ý nghĩa và mang tới cho mình
nhiều niềm vui. Nhờ nó mình nghe được những bản nhạc phát qua sóng
radio, rồi tìm mua các băng Cassette ở cửa hàng, hay là mượn của những
thằng bạn. Lúc đó mình nghe đi nghe lại những bài hát của Michael Learns
To Rock, Backstreet Boys hay The Moffats. Canh nghe từng bài hát trên
sóng radio để thu lại vào băng. Một chiếc băng được thu đi thu lại nhiều
lần cho đến khi nó nhão, hoặc là bị cấn và rối. Hồi đó thỉnh thoảng
cũng có làm một vài cuốn băng Cassette với những bài hát hay và lãng mạn
tặng cho mấy bạn cùng lớp. Thật là vui!
Giờ đây sau 50 năm
tồn tại, băng Cassette đã dần dần biến mất, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ
còn nhớ đến nó rất lâu. Có thể những đứa con, cháu của chúng ta chỉ có
thể tìm được băng Cassette trong bảo tàng nhưng hy vọng là qua những câu
chuyện kể của các bậc cha ông, chúng có thể mường tượng ra được cái
cách mà những thế hệ đi trước đã nghe nhạc và đã yêu âm nhạc như thế
nào.
Một số cột mốc và sự kiện quan trọng liên quan đến băng Cassette:
Tháng 8 năm 1963, hãng Philips ở Hà Lan đã cho ra mắt băng Compact
Cassette và máy nghe Cassette (được giới thiệu lần đầu tại Hội chợ Triển
lãm Phát sóng Funkausstellung tại Berlin). Một băng Cassette được cấu
tạo từ một cuộn băng có mang từ trường trong một vỏ băng bằng nhựa,
trong đó thường được ghi bằng 4 rãnh âm thanh cho 2 mặt. Cuộn băng từ
trường này rộng 3,81 mm, còn độ dài của cuộn băng và độ dày của băng tùy
thuộc vào thời gian có thể chạy của cả băng, như có nhiều chuẩn thông
dụng C60 (30 phút âm thanh mỗi mặt, băng dài 90 m), C90 (45 phút mỗi
mặt, băng dài khoảng 130 m).
Một trong những người ủng hộ băng Cassette ngay từ thời gian đầu là tay
guitar Keith Richards của nhóm Rolling Stones, người đã mua một chiếc
máy ghi âm để thu lại những đoạn demo nghe không mất tiền. Anh rất yêu
thích nó và đã dùng để ghi âm các đoạn guitar cho những bài hát như
Street Fighting Man và Jack Flash vào năm 1968. Trong một cuốn hồi ký có
tên "Life" của ông, Keith còn nhắc lại rằng "Tôi hy vọng là tôi có thể
làm lại được việc đó, chỉ tiếc là họ không còn sản xuất những thiết bị
như vậy nữa."
Trong hơn 1 thập kỷ, đối thủ cạnh tranh chính của băng Cassette trên thị
trường băng di động đó là loại băng 8 rãnh, ra đời vào năm 1964. 8 rãnh
được chia thành 4 chương trình, mỗi cái có 2 kênh stereo (vì thế nên
được gọi là 8 rãnh). Các nhà sản xuất xe ô tô đã nhanh chóng ứng dụng
chuẩn này, tuy nhiên nó có hạn chế là nó không thể tua lại được và đôi
khi các chương trình cắt đôi bài hát. Vào cuối những năm 70, băng
Cassette đã giành phần thắng trong cuộc chiến băng từ.
Xe ô tô là một trong những nhân tố góp phần phổ biến băng Cassette. Một
số xe đã tích hợp hệ thống máy hát đĩa, tuy nhiên khi xe đi qua ổ gà
giằng xóc thì kim đọc lại bị giật. Băng Cassette nhỏ gọn và dễ sử dụng
cho nên nó vẫn được ưu tiên hơn. Với sự xuất hiện của băng Cassette, các
tài xế bỗng nhiên không còn phải liên tục nghe AM/FM, mà thay vào đó là
có thể nghe được các bài hát yêu thích của mình.
Một trong những vấn đề của băng Cassette là tính trung thực - nó không
có được chất lượng như đĩa LP hay băng cối (reel to reel). Nhưng khi
công nghệ được cải thiện thì chất lượng của băng Cassette cũng tăng lên.
Một trong những chiến dịch quảng cáo nổi tiếng nhất cho băng Cassette
được thực hiện bởi công ty Memorex, một nhà sản xuất băng Cassette, họ
đã sử dụng giọng ca Ella Fitzgerald để đặt ra câu hỏi là, "Is it live?
Or is it Memorex?"
Maxell, một nhà sản xuất băng Cassette khác, đã quảng bá cho chất lượng
băng của họ với hình ảnh một người đàn ông ngồi trên ghế, bị thổi tung
bởi chất lượng (và có thể là âm lượng) từ chiếc băng nhạc mà anh ta
nghe. Trong nhiều năm, các hãng sản xuất như Maxell, TDK và Denon đã
quảng bá về chất lượng của loại băng Cassette họ sản xuất và lớp từ phủ
trên băng của họ.
Nhóm nhạc của Anh Bow Wow Wow, dẫn đầu bởi ca sĩ Annabella Lwin, 14
tuổi, đã tung ra bản single trên băng Cassette đầu tiên "C-30 C60 C-90
Go" vào năm 1980.
Năm 1979, Sony ra mắt chiếc máy nghe nhạc Walkman đã tạo nên một cuộc
cách mạng trên thị trường âm nhạc. Không còn phải cắm tai nghe vào cả
giàn máy to lớn, giờ đây bạn có thể nghe nhạc bằng băng từ ngay khi đang
đi ngoài đường.
Trong khi đó, "Boombox" là thiết bị đối lập với Walkman, một chiếc radio
to với hộc chơi băng Cassette và các loa to. Tất nhiên, bạn có thể dùng
nó để nghe nhạc trong phòng, nhưng đa số mọi người vẫn thích mang nó ra
nơi công cộng để tận hưởng và chia sẻ "không gian âm thanh" với thế
giới. Đây cũng là một thứ gắn liền với văn hoá hip-hop.
Dần dần, một cách tự nhiên, băng Cassette trở thành một nét nổi bật trong văn hoá. Nó đóng vai trò quan trọng trong các bộ phim.
Với sự ra đời của đĩa CD từ năm 1982, băng Cassette bắt đầu mất đi
vị thế của nó. Năm 1992, băng Cassette ghi sẵn chiếm hơn một nửa lượng
âm nhạc bán ra; 4 năm sau đó, nó giảm xuống còn 1/4. Và khi đĩa ghi được
xuất hiện, dường như là "ngày tận thế" của băng Cassette đã đến và khi
người dùng đã có thể tải nhạc từ internet thì băng Cassette thực sự rơi
vào quên lãng.
Vào ngày 07/09/2013 vừa qua, một nhà sản xuất đã tổ chức ngày Cassette
Store Day quốc tế, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày băng Cassette ra đời.
Một số lượng giới hạn các album nhạc sẽ được phát hành ở chuẩn Cassette,
và một số album nhạc cổ điển hiện đại sẽ phát hành lại trên định dạng
từ rất được yêu thích này. Bạn có thể vào cửa hàng của Cassette Store
Day để mua băng Cassette nếu thích.
Bài viết của levuongthinh tin từ CNN (Tham khảo từ tinhte.vn, có bổ xung thêm tư liệu ảnh)
Cũng như
Mini Disc và cùng thời với thiết bị và đĩa Mini Disc, công nghệ DAT (Digital
Audio Tape) một thời đã là đỉnh cao nhất của công nghệ âm thanh nhưng nay đang
bị lãng quên. Tuy vậy các băng và đầu chơi băng DAT vẫn được những người chơi
âm thanh hoài cổ sưu tầm và chơi. Nếu so về độ phức tạp về cơ khí, chất lượng
âm thanh thì đầu DAT có độ phức tạp và cho ra âm thanh vượt trội hơn hẳn công
nghệ Mini Disc. Với anh em thích dùng DAC chơi nhạc Lossless thì đây cũng là
một phương án NGON - BỔ -RẺ cho anh em ta lựa chọn.
GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ DAT (DIGITAL AUDIO TAPE):
Đầu DIGITAL AUDIO RECORDER đọc băng DAT
Digital Audio Tape (DAT hoặc R-DAT) là một lọai băng âm thanh được phát triển
bởi SONY và được giới thiệu vào năm 1987. Trong lần xuất hiện đó loại băng này
giống như một băng Compact Cassette, sử dụng băng từ có độ rộng 4 mm nằm trong
một vỏ bảo vệ, kích thước bằng khoảng một nửa kích thước 73 mm x 54 mm x 10,5
mm. Như tên của băng cho ta thấy, việc ghi âm là kỹ thuật số chứ không phải là
tương tự. Băng DAT có khả năng ghi âm ở tần số lấy mẫu cao hơn, bằng hoặc thấp
hơn so với tần số lấy mẫu của một đĩa CD (tương ứng với 48, 44.1 hoặc 32 kHz)
tại 16 bit lượng tử. Nếu băng DAT sao chép một nguồn kỹ thuật số thì sau đó nó
sẽ tạo ra một bản sao chính xác, không giống như các phương tiện truyền thông
kỹ thuật số khác như băng Cassette số DCC hoặc đĩa MiniDisc (không phải Hi-MD),
cả hai loại này đều sử dụng hệ thống suy giảm dữ liệu (có mất mát dữ liệu).
Giống như hầu hết các định dạng băng video cassette, một băng DAT chỉ có thể
được ghi và phát theo một chiều (không ghi/phát được chiều ngược lại), do vậy
nó không giống như băng tương tự compact cassette.
Mặc dù được ra đời với dự định như là một sự thay thế cho các loại băng audio
Cassette nhưng định dạng băng DAT đã chưa bao giờ được người dùng chấp nhận rộng
rãi bởi các vấn đề về chi phí đắt đỏ và mối quan tâm từ ngành công nghiệp âm
nhạc về các bản sao kỹ thuật số là không được phép. Tuy vậy định dạng này cũng
có sự thành công vừa phải trong thị trường chuyên nghiệp như một phương tiện
lưu trữ dữ liệu trong máy tính. Đến nay SONY đã ngừng sản xuất máy ghi/phát
băng DAT mới do vậy việc tìm mua các đầu đọc băng DAT sẽ trở nên khó khăn hơn
để phát các bản ghi âm được lưu trữ trong định dạng này, trừ khi chúng được sao
chép sang các định dạng khác hoặc lưu trong ổ đĩa cứng máy tính.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ BĂNG DAT:
Công nghệ DAT rất giống với công nghệ chế tạo các máy ghi/phát Video trước kia.
Công nghệ này cũng sử dụng đầu từ quay và quét xoáy ốc (helical) để ghi dữ
liệu. Công nghệ này tránh cho các băng DAT bị người dung can thiệp vật lý như
cắt, nối băng như băng cối analog hoặc băng hở (open reel) như các loại băng
ProDigi, DASH.
Băng DAT tiêu chuẩn cho phép 4 phương thức lấy mẫu: 32 kHz ở 12 bits, 32 kHz,
44.1 kHz hoặc 48 kHz ở 16 bits. Tuy nhiên cũng có các máy ghi/phát băng DAT
hoạt động nằm ngoài thông số tiêu chuẩn, cho phép ghi dữ liệu với tần số 96kHz
ở 24 bit. Các máy phát đời đầu nhắm vào thị trường tiêu dùng nhưng không hoạt
động ở tần số lấy mẫu 44,1kHz khi ghi do vậy chúng đã không thể được dùng để
nhân bản ra đĩa CD. Vì có các tiêu chuẩn ghi âm khác nhau nhưng đều sử dụng
cùng một loại băng, nên chất lượng của việc lấy mẫu có liên quan trực tiếp đến
thời gian ghi âm - 32 kHz ở 12 bit sẽ cho phép sáu giờ ghi âm vào băng 180
phút, trong khi HHS sẽ chỉ ghi được 90 phút từ cùng một băng cùng loại. Bao gói
trong dữ liệu tín hiệu là các mã phụ (subcodes) để chỉ ra điểm bắt đầu và kết
thúc của các tracks hoặc bỏ qua toàn bộ một phần băng, điều này cho phép lập
chỉ mục và giúp cho việc tìm kiếm các tracks được nhanh chóng. Việc ghi âm
stereo hai kênh được hỗ trợ trong tất cả các tần số lấy mẫu và độ sâu bit,
nhưng tiêu chuẩn R-DAT lại không hỗ trợ ghi âm 4 kênh tại tần số 32 kHz.
Băng DAT thường có độ dài từ 15 đến 180 phút, một băng 120 phút sẽ có chiều dài
60 mét. Các băng DAT có chiều dài hơn 60 mét thường có vấn đề cho các đầu
ghi/phát băng DAT do vật liệu băng mỏng hơn. Đầu ghi/phát băng DAT hoạt động
tần số lấy mẫu 48 kHz và 44,1 kHz tải băng ở tốc độ 8,15 mm/s. Đầu ghi/phát
băng DAT hoạt động ở tần số lấy mẫu 32 kHz sẽ tải băng ở tốc độ 4,075 mm/s.
Các định dạng tiền nhiệm (Predecessor formats):
Băng DAT không phải là băng âm thanh kỹ thuật số đầu tiên. Phương pháp điều chế
xung – mã (PCM) đã được sử dụng tại Nhật Bản bởi hãng DENON trong năm 1972 dùng
cho lưu trữ băng gốc (mastering) và sản xuất các đĩa hát analog bằng cách sử
dụng một máy ghi băng video 2-inch với định dạng 4 kênh, nhưng thiết bị này đã
không được phát triển thành một sản phẩm tiêu dùng. Việc phát triển của DENON được
đánh dấu bởi sự hợp tác với đài phát thanh truyền hình NHK của Nhật Bản, NHK đã
phát triển máy ghi âm audio PCM có độ trung thực cao (high-fidelity) đầu tiên
vào cuối những năm 1960. DENON sau đó tiếp tục phát triển máy ghi âm PCM của họ
để sử dụng cho các máy video chuyên nghiệp như là các phương tiện lưu trữ, cuối
cùng thì việc chế tạo các thiết bị 8 tracks cũng được sử dụng lại do các nhà
sản xuất khác thực hiện. Một seri các bản ghi nhạc Jazz lại được sản xuất ở Mỹ
tại New York là vào cuối những năm 1970.
Vào năm 1976, một định dạng băng audio kỹ thuật số khác cũng đã được phát triển
bởi Soundstream, sử dụng băng cối (reel to reel) có độ rộng 1 inch (25,4mm)
chạy trên một thiết bị ghi âm nhạc cụ sản xuất bởi Honeywell hoạt động như một
hệ cơ (transport) kết nối với phần cứng mã hóa và giải mã audio số bên ngoài
cũng do Soundstream thiết kế. Định dạng của Soundstream đã được cải tiến qua
một vài nguyên mẫu, sau khi nó phát triển tỷ lệ lấy mẫu lên đến 50kHz ở 16bit
thì dường như đã đạt chất lượng dùng cho ghi âm các bản nhạc cổ điển ở mức
chuyên nghiệp. Khách hàng đầu tiên thời đó là các bản ghi âm cho hãng Telarc ở
Cleveland bang Ohio Mỹ. Tháng 4 năm 1978, hãng Telarc có bản ghi âm của Holst
Suites cho băng nhạc Fred Fennell và Cleveland Wind Ensemble đã là một phát
hành mang tính bước ngoặt và mở ra kỷ nguyên ghi âm kỹ thuật số cho các hãng âm
nhạc cổ điển của Mỹ. Hệ thống Soundstream sau đó cũng được hãng RCA(Radio
Corporation of America), một hãng thu âm lớn của SONY tại Canada sử dụng.
Bắt đầu từ năm 1978, Hãng 3M giới thiệu định dạng của máy ghi âm audio kỹ thuật
số của riêng hãng để sử dụng cho phòng thu (studio). Một trong những nguyên mẫu
đầu tiên của hãng 3M đã được lắp đặt trong các phòng thu Sound 80 tại
Minneapolis, Minnesota, Mỹ. Hệ thống này đã được sử dụng trong tháng 6 năm 1978
để hãng Aaron Copland ghi âm bản nhạc "Appalachian Spring" của dàn
nhạc thính phòng St. Paul, thực hiện bởi Dennis Russell Davies. Bản ghi âm đó
đã là bản ghi âm số đầu tiên giành được giải thưởng Grammy. Phiên bản sản xuất
của các hệ thống băng chủ (Mastering) kỹ thuật số của hãng 3M đã được sử dụng
vào năm 1979 để ghi lại tất cả các album nhạc rock dưới dạng kỹ thuật số, bài
nhạc "Bop Till You Drop," của Ry Cooder đã được thực hiện tại Xưởng
phim Warner Brothers ở California.
Định dạng PCM định hướng người tiêu dùng đầu tiên sử dụng định dạng băng video
(Beta và VHS) như là các phương tiện lưu trữ. Các hệ thống này sử dụng định
dạng kỹ thuật số EIAJ, lấy mẫu ở tần số 44,056 kHz tại 14 bit. Còn hệ thống
PCM-F1 của SONY ra mắt vào năm 1981 cũng bắt đầu đưa ra tùy chọn 16-bit. Các hệ
thống khác cũng đã được tiếp thị bởi Akai, JVC, Nakamichi và một số hãng khác.
Panasonic, thông qua bộ phận kỹ thuật của mình, một thời gian ngắn cũng đã bán
một máy ghi âm kỹ thuật số kết hợp với một bộ chuyển đổi kỹ thuật số EIAJ cùng
với một hệ cơ video VHS, SV-P100. Các máy này được bán trên thị trường bởi các
công ty điện tử tiêu dùng cho người tiêu dùng, nhưng chúng rất đắt tiền so với
băng cassette hoặc các đầu băng cối reel-to-reel thời đó. Chúng cũng đã làm cho
các nhà ghi âm chuyên nghiệp phải trả tiền nhiều hơn cho thiết bị và một số bản
phát hành chuyên nghiệp của các hãng cũng đã được các máy này ghi âm.
Bắt đầu từ đầu những năm 1980, hệ thống chuyên nghiệp sử dụng một bộ chuyển đổi
PCM đã trở lên thông dụng như các định dạng băng gốc (mastering). Các hệ thống
này số hóa tín hiệu âm thanh analog và sau đó giải mã các dòng dữ liệu kỹ thuật
số cuối cùng thành tín hiệu video analog để một máy VCR(Video Cassette
Recorder) thông thường có thể được sử dụng như một phương tiện lưu trữ.
Một trong những ví dụ quan trọng nhất của một hệ thống dựa trên bộ chuyển đổi
PCM là hệ thống băng gốc (mastering) audio số PCM-1600 của SONY, được giới
thiệu vào năm 1978. PCM-1600 sử dụng một máy VCR định dạng U-Matic làm hệ cơ,
kết nối với phần cứng xử lý âm thanh kỹ thuật số bên ngoài. Nó (và các phiên
bản sau này của nó như PCM-1610 và 1630) đã được sử dụng rộng rãi để sản xuất
và làm băng gốc (mastering) cho một số các đĩa CD audio kỹ thuật số đầu tiên
vào đầu những năm 1980. Khi đĩa CD đã được giới thiệu thương mại hóa vào năm
1983, các băng ghi trên hệ thống PCM-1600 đã được gửi đến các nhà máy sản xuất
CD để sử dụng để làm đĩa gốc master cho việc in sao, nhân bản đĩa CD.
Các ví dụ khác như hệ thống dbx, Model 700 của hãng Inc’s tương tự như đĩa
Super Audio CD ngày nay, sử dụng điều chế delta-sigma có tỷ lệ lấy mẫu cao hơn
cả điều chế PCM; hệ thống PCM năm 1970 của Decca sử dụng một máy ghi băng video
được sản xuất bởi JVC làm hệ cơ và máy ghi âm kỹ thuật số là X-80 của hãng
Mitsubishi. Hệ thống sử dụng định dạng băng gốc mastering kỹ thuật số là loại
băng hở (open reel) rộng 6,4 mm (¼ inch) và sử dụng tần số lấy mẫu rất không
thông dụng là 50,4 kHz.
Đối với phòng thu chất lượng cao, tất cả các định dạng rất hiệu quả nêu trên đã
trở nên lỗi thời trong đầu những năm 1980 bởi sự cạnh tranh của hai định dạng:
- Băng cối (reel-to-reel) với cụm đầu từ cố định chính là định dạng DASH của
hãng SONY
- Máy ghi âm X-80 tiếp tục phát triển của Mitsubishi – sau này hệ thống đã được
cải tiến để trở thành định dạng ProDigi (thực tế, một trong những máy ghi âm
định dạng ProDigi đầu tiên X-86C của Mitsubishi cũng đã tương thích với băng
ghi âm trên máy X-80 trước đó).
Cả hai định dạng sau này vẫn còn phổ biến như một sự thay thế cho ghi âm analog
cho đến tận đầu những năm 1990, khi mà sự ra đời của các máy ghi âm bằng đĩa
cứng đã làm cho chúng trở nên lỗi thời.
Giới thiệu công nghệ DASH (Digital Audio Stationary Head):
Công nghệ DASH (Digital Audio Stationary Head) là một công nghệ định dạng băng
cối audio kỹ thuật số (reel to reel) được SONY giới thiệu vào đầu năm 1982.
Định dạng này cho phép ghi đa tracks (multitrack) với chất lượng cao dùng để
lưu trữ cho băng gốc (Mastering) trong các studio được SONY đưa ra để thay thế
các phương pháp ghi âm analog thời đó. DASH có khả năng ghi âm 2 kênh audio
trên băng cối có độ rộng ¼ inch; 24 hoặc 48 tracks trên băng cối ½ inch (13mm)
và tối đa lên tới 14 inch. Dữ liệu được ghi trên băng là tuyến tính, đầu từ
đứng im, điều này là đối nghịch với định dạng băng DAT khi mà dữ liệu được ghi
trên đầu từ quay nghiêng (xoắn ốc) giống như của đầu Video Cassette Recorder -
VCR.
Trong công nghệ DASH, dữ liệu audio được mã hóa PCM tuyến tính và sử dụng cơ
chế sửa lỗi CRC(Cyclic Redundancy Check) cho phép người dùng can thiệp vật lý
như cắt, nối băng như khi ta xử lý với băng analog và khi phát lại không bị mất
tín hiệu. Trong máy ghi 2 tracks DASH Recorder, dữ liệu số được ghi lên băng
thông qua 9 tracks: 8 tracks cho dữ liệu audio số, một track cho dữ liệu kiểm
tra lỗi CRC, ngoài ra còn dự phòng cho 2 tracks tín hiệu analog tuyến tính và
một track analog tuyến tính để mã hóa thời gian ghi.
Ưu điểm cơ bản nhất của bất kỳ phương tiện ghi âm kỹ thuật số nào đó là khả
năng tái tạo bản ghi như bản gốc. Đó là lý do tại sao một số những ứng dụng đầu
tiên của ghi âm kỹ thuật số lại là dữ liệu của các nhạc cụ và âm nhạc cổ điển.
Đối với audio, không phải lúc nào cũng cần việc tái tạo các bản nhạc đúng gốc.
Việc cân bằng tần số của bản tái tạo không đồng đều của các máy ghi âm analog
hoặc khả năng ghi ở mức lớn hơn 0 dB (sản sinh ra méo mong muốn) lại thường
xuyên được khai thác như là một lợi thế, ví dụ như âm thanh của tiếng trống
trên băng analog thường nghe “dày” hơn. Các máy ghi âm DASH còn có một mạch đặc
biệt gọi là mạch “nhấn” (Emphasis) để khắc phục vấn đề nhiễu (noise) của các bộ
chuyển đổi analog sang digital và digital sang analog tại thời điểm khuếch đại
các tần số cao trên thiết bị đầu cuối. Mạch này yêu cầu phải được giải nhấn “de-emphasis”
trên thiết bị phát băng sau mạch DAC để tái tạo lại chính xác âm thanh. Trong
khi trước đây, mạch “nhấn” được hất hết các thiết bị sử dụng và dĩ nhiên nó
cũng tạo ra một âm hình riêng nhưng càng ngày nó càng được ít sử dụng.
Có 3 họ máy ghi âm DASH Recorder được SONY và STUDER sản xuất với một
chút ít khác biệt như sau:
Hình ảnh một số thiết bị DAT cổ xưa:
Thiết bị 2 tracks: PCM-3402, PCM-3202:
Thiết bị 24 tracks: PCM-3324, PCM-3324A, PCM-3324S:
Thiết bị 48 tracks: PCM-3348, PCM-3348HR, và Studer D820 and D827:
Hãng TASCAM còn sản xuất thiết bị DASH recorder 24-tracks, DA-800-24:
Công nghệ âm thanh ProDigi:
Công nghệ âm thanh ProDigi của hãng Mitsubishi là một định dạng băng cối audio
kỹ thuật số (reel to reel) chuyên nghiệp. Trong kỹ thuật này của Mitsubishi,
đầu từ là đứng yên giống như cụm đầu từ audio kỹ thuật số của SONY. Từ giữa
những năm 1980 cho đến đầu năm 1990 hai định dạng này của SONY và Mitsubishi đã
cạnh tranh mạnh với nhau. Với kỹ thuật này Audio được ghi dưới dạng số hóa một
cách tuyến tính trên băng từ và được bảo vệ bởi cơ chế sửa lỗi có tên gọi: kiểm
tra tính dư thừa dữ liệu tuần hoàn CRC (Cyclic Redundancy Checks) để đảm bảo
tính toàn vẹn của tín hiệu kể cả khi dữ liệu bị mất trong khi phát. Các máy
ghi/phát theo công nghệ ProDigi có thể là các loại: 2 tracks – sử dụng băng từ
¼ inch; loại 32 tracks – sử dụng băng từ 1 inch và phiên bản loại 16 tracks sử
dụng băng từ ½ inch. Tất cả các máy theo công nghệ này đều yêu cầu sử dụng băng
từ hạt kim loại (metal).
R-DAT and S-DAT (DCC):
Cơ chế hoạt động của máy ghi/phát băng DAT phức tạp và chi phí chế tạo đắt hơn
nhiều so với cơ chế hoạt động của máy ghi/ phát băng compact cassette analog do
phải bố trí đầu từ quay nghiêng đọc dữ liệu. Do vậy hai hãng Philips và
Panasonic đã hợp tác phát triển một hệ thống ghi âm băng từ kỹ thuật số (DCC)
được coi là đối thủ với các đầu ghi/phát băng DAT. Máy ghi/phát DCC có cơ cấu
đầu từ cố định và vẫn dựa trên cơ chế vận hành của băng analog compact cassette
cũ. Các máy ghi/phát băng DCC có giá thành rẻ hơn và cơ cấu cơ khí đơn giản hơn
máy ghi/phát băng DAT. Nhưng kỹ thuật DCC đã không tạo ra được các bản sao kỹ
thuật số hoàn hảo bởi nó sử dụng một kỹ thuật nén có tổn hao dữ liệu được gọi
là PASC (việc nén có tổn hao là cần thiết để giảm tỷ lệ dữ liệu đến một mức độ
mà một đầu từ cố định có thể xử lý được). Công nghệ DCC chưa bao giờ là đối thủ
cạnh tranh được với công nghệ DAT trong các phòng Studio bởi vì công nghệ DAT
đã được chuẩn bị và công bố cùng một lúc với định dạng MiniDisc của Sony (có
khả năng biên tập và truy cập ngẫu nhiên), nhưng Minidisc lại không thành công
với người tiêu dùng. Tuy vậy kỹ thuật DCC cũng đã chứng minh được rằng các bản
ghi âm kỹ thuật số chất lượng cao vẫn có thể đạt được với một cơ chế hoạt động
đơn giản hơn, có giá thành rẻ hơn, sử dụng các đầu từ cố định.
Cơ cấu phức tạp của đầu đọc băng DAT
Cuộc vận động chống lại kỹ thuật DAT:
Cuối những năm 1980, Hiệp hội công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA) đã không thành công
trong cuộc vận động chống lại sự ra đời của các thiết bị ghi/phát băng DAT vào
Mỹ. Ban đầu, tổ chức này đe dọa sẽ có những hành động pháp lý chống lại bất kỳ
nhà sản xuất nào bán máy ghi/phát băng DAT vào nước Mỹ. Sau đó tìm cách áp đặt
các hạn chế trên các máy ghi/phát băng DAT để ngăn cản các máy này được sử dụng
để sao chép các đĩa LP, CD và các băng cassette gốc. Một trong những nỗ lực này
là đạo luật mã sao chép cho máy ghi âm kỹ thuật số năm 1987 (được giới thiệu
bởi Thượng nghị sĩ Al Gore và Dân biểu Waxman), được cổ súy bởi Walter Yetnikoff
chủ tịch hãng ghi âm CBS Records. Theo đạo luật này thì các máy ghi băng DAT
phải có một con chip để phát hiện sự sao chép bản ghi với một bộ lọc notch,
điều này có nghĩa là các bản nhạc gốc có bản quyền âm nhạc dù là analog hay kỹ
thuật số trên LP, cassette hay DAT cũng sẽ bị biến dạng âm thanh do các bộ lọc
notch áp dụng bởi các nhà xuất bản tại thời điểm băng gốc được sản xuất hàng
loạt. Cục tiêu chuẩn quốc gia của Mỹ trong một nghiên cứu đã chỉ ra rằng đạo
luật nêu trên là không hiệu quả trong việc ngăn chặn việc sao chép.
Sự đối đầu này của CBS Records đã được giải quyết sau khi SONY, nhà sản xuất
thiết bị DAT đã mua lại hãng CBS Records vào tháng giêng năm 1988. Vào tháng
sáu năm 1989, một thỏa thuận đã đạt được, RIAA đã nhượng bộ chấp nhận một đề
nghị thực tế hơn từ các nhà sản xuất với Quốc hội rằng pháp luật được ban hành
yêu cầu các nhà sản xuất phải tích hợp hệ thống quản lý bản sao nối tiếp trong
các máy ghi âm để ngăn chặn việc sao chép kỹ thuật số. Yêu cầu này đã được ban
hành như là một phần của đạo luật Audio Home Recording năm 1992, luật này cũng
áp đặt thuế cho các máy ghi băng DAT và băng DAT trắng. Tuy nhiên, ngành công
nghiệp máy tính đã vận động thành công để máy tính cá nhân không phải chịu tác
động của đạo luật này, thiết lập một thời kỳ sao chép tiêu dùng khổng lồ băng
đĩa có bản quyền trên các vật liệu như CD ghi được, hệ thống chia sẻ các tập
tin máy tính như Napster, những tác động này đã làm suy yếu ngành công nghiệp
ghi âm.
MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA THIẾT BỊ VÀ BĂNG DAT:
Đối với ngành công nghiệp ghi âm chuyên nghiệp:
Công nghệ ghi âm DAT đã được sử dụng một cách chuyên nghiệp trong những năm
1990 của ngành công nghiệp ghi âm chuyên nghiệp. Nó được sử dụng như một phần
của dây chuyền sản xuất hoàn toàn bằng kỹ thuật số mới nổi thời đó. Nó cũng bao
gồm cả các máy ghi âm đa tracks kỹ thuật số và bàn trộn kỹ thuật số được sử
dụng để tạo ra một bản ghi âm hoàn toàn kỹ thuật số. Trong cấu hình này, nó cho
phép giữ được âm thanh số từ bộ chuyển đổi AD đầu tiên sau bộ tiền khuếch đại
micro cho đến khi nó là một đĩa nhạc CD trong máy nghe nhạc CD.
Album nhạc Real Life của ban nhạc rock Scotland Simple Minds phát hành bởi
Virgin Records là album đầu tiên phát hành thương mại, được ghi trước trên băng
DAT. Nhưng nó đã được phát hành với số lượng rất nhỏ, do vậy nó đã trở thành
hàng hiếm đối với các nhà sưu tập. Một số album khác từ nhiều hãng thu âm cũng
đã được phát hành, ghi trước trên băng DAT trong những năm đầu tiên của sự tồn
tại định dạng này, với số lượng nhỏ nhưng rất tốt.
Đối với người dùng phổ thông và gia đình:
Công nghệ ghi âm băng DAT đã được những người ủng hộ dự kiến như là định dạng
kế thừa thay thế cho băng nhạc cassette analog (tương tự) cũng giống như các
đĩa CD là sự kế thừa cho các bản ghi âm đĩa nhựa LP. Nó đã được bán rất chạy ở
Nhật Bản, nơi các cửa hàng âm thanh dành cho người dùng cao cấp High End đã
cung cấp rất nhiều băng và đầu ghi/phát băng DAT cho các cửa hàng vào những năm
2010, kể cả các cửa hàng đồ cũ second hand. Nói chung thời đó rất có nhiều lựa
chọn cho việc lựa chọn, sở hữu các máy ghi/phát băng DAT. Tuy nhiên, tại các
quốc gia khác, công nghệ này là chưa bao giờ được thương mại hóa và phổ biến
như đĩa CD hoặc băng cassette. Đầu ghi/phát băng DAT là khá đắt đỏ so với một
vài định dạng ghi âm thương mại khác đang tồn tại thời đó. Trên toàn cầu, ngày
đó công nghệ ghi âm băng DAT vẫn còn được phổ biến trong một thời gian để chế
tạo và kinh doanh các bản ghi âm nhạc sống trước khi các đầu ghi đĩa CD xuất
hiện và thắng thế.
Đối với việc lưu trữ dữ liệu trên máy tính:
Loại băng DAT dùng cho lưu trữ dữ liệu trên các máy chủ
Ban đầu, định dạng băng DAT được thiết kế sử dụng cho audio, nhưng thông qua
tiêu chuẩn ISO về lưu trữ dữ liệu số (Digital Data Storage), chúng đã thích ứng
cho việc lưu trữ dữ liệu nói chung. Với một băng DAT có khả năng lưu trữ 1,3
đến 80GB dữ liệu trên một băng DAT dài 60 đến 180 mét tùy thuộc vào tiêu chuẩn
và độ nén. Nó là một phương tiện lưu trữ truy cập tuần tự và thường được sử
dụng để sao lưu dữ liệu cho các máy chủ. Do có yêu cầu là cao hơn đối với dung
lượng và tính toàn vẹn trong sao lưu dữ liệu, một băng DAT dùng cho máy tính đã
được giới thiệu, nó được gọi là băng lưu trữ dữ liệu số DDS (Digital Data
Storage). Mặc dù về mặt chức năng loại băng này tương tự như băng DAT dùng cho audio,
nhưng chỉ có một số ổ đọc băng DDS và DAT (đặc biệt là những ổ được sản xuất để
lưu trữ dữ liệu cho máy trạm SGI) là có khả năng đọc được dữ liệu âm thanh từ
băng DAT. Các ổ đọc băng SGI DDS4 sau đó đã không còn được sản xuất để hỗ trợ
đọc âm thanh từ băng DAT nữa.
SỬ DỤNG ĐẦU DAT ĐỂ LÀM DAC NGHE NHẠC LOSSLESS:
Việc băng DAT ngày càng hiếm và sử dụng còn chưa tiện lợi so với CD nên các đầu DAT hiện nay chủ yếu được dùng để anh em phối ghép với các nguồn phát Lossless như đầu HDD PLAYER để chơi nhạc Lossless:
Việc chơi nhạc Lossless dùng đầu DAT cũng giống hệt như việc phối ghép sử dụng
thiết bị MD. Các đầu chơi băng DAT hầu như đều có các ngõ vào số đồng trục
(COAXIAL), cổng quang (OPTICAL) hoặc cả hai ở phía sau thiết bị như hình dưới
đây:
Để đấu nối ta nối cổng đồng trục (COAXIAL) hoặc cổng quang (OPTICAL) ra của đầu
HDD Player đưa vào đầu vào tương ứng trên đầu DAT.
Tín hiệu audio số PCM từ đầu HDD Player sẽ được đưa sang thiết bị đầu DAT giải
mã ra tín hiệu 2 kênh Stereo để đưa ra đầu ra analog phía sau thiết bị DAT.
Từ đầu Analog ra của thiết bị DAT sẽ được đấu nối tới đầu vào của Amply để sẵn
sàng khuếch đại
Đối với một số đầu DAT (như các model của hãng SONY) để đưa ra tín hiệu analog
ta không phải dùng băng DAT mồi mà chỉ cần nhấn phím REC trên mặt máy để làm
chức năng DA đưa ra tín hiệu analog để đưa tới amply.
Chất lượng tín hiệu phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng DAC của đầu DAT. Trên thực
tế với các đầu DAT có rất nhiều loại từ hàng khủng (Professional) cho tới hàng
dân dụng đều cho ra chất lượng khá tốt trong tầm giá.
Về chất lượng phát băng DAT chỉ có thể nói là TUYỆT VỜI, nếu cùng nguồn nhạc từ
CD ta ghi qua băng DAT bằng cổng số phía sau máy, sau đó phát lại bằng đầu và
băng DAT, kết quả sẽ cho hay hơn hẳn bạn chơi trên CD với cùng thiết bị khuếch
đại và loa. Nghe thì rất lạ tai nhưng với những người đã chơi băng và đầu DAT
thì đây lại là một sự thật - Các bạn hãy thử xem....
BIÊN TẬP: CAO SƠN
Email: caosonhd@gmail.com
Cell phone: 0913255399